Ngày đăng : 29/08/2015

Chủ nghĩa tự do truyền thống


Thuật ngữ “chủ nghĩa tự do” có nguồn gốc từ tiếng Latin: “liber”, nghĩa là “tự do”, ban đầu là để nói đến triết lí tự do. Ở châu Âu, khi tác phẩm này ra đời (1927), nó vẫn có nghĩa như thế, vì vậy độc giả của nó đã hi vọng sẽ tìm được ở đây lí giải về triết lí tự do truyền thống. Đáng tiếc là trong mấy chục năm gần đây thuật ngữ “chủ nghĩa tự do” đã mang nghĩa hoàn toàn khác. Thuật ngữ này đã bị những nhà triết học theo đường lối xã hội, đặc biệt là ở Mĩ, sử dụng để nói về chủ nghĩa can thiệp của chính phủ và những chương trình “nhà nước phúc lợi” của họ. Một trong rất nhiều ví dụ có thể dẫn ra ở đây là cựu Thượng nghị sĩ Mĩ, Joseph S. Clark con, khi ông này còn làm Thị trưởng thành phố Philadelphia, đã nói về quan điểm “tự do” (liberal) của ông ta như sau:

“Xin làm rõ ngay từ đầu để loại bỏ mọi sự mù mờ về mặt ngữ nghĩa, một người tự do được hiểu là người tin vào việc sử dụng mọi lực lượng của chính phủ nhằm thúc đẩy sự công bằng trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội trên bình diện địa phương, bang, quốc gia và quốc tế… Người tự do tin rằng chính phủ là công cụ tốt cho việc phát triển xã hội, người muốn đưa những nguyên tắc của đạo Thiên Chúa vào đời sống.” (Tờ Atlantic, tháng 7 năm 1953, trang 27).

Quan điểm như thế về “chủ nghĩa tự do” đã giữ thế thượng phong vào năm 1962, là năm tác phẩm này được dịch sang tiếng Anh. Đấy là lí do mà Mises tin rằng nếu dịch sát nghĩa nhan đề gốc của tác phẩm Liberalismus sang tiếng Anh có thể sẽ gây ra hiểu lầm. Vì vậy, ông đề nghị gọi bản tiếng Anh là Cộng đồng tự do và thịnh vượng (The Free and Prosperous Commonwealth). Nhưng năm sau ông quyết định những người cổ vũ thị trường tự do và tự do cá nhân không việc gì phải nhường thuật ngữ “chủ nghĩa tự do” cho các triết gia xã hội. Trong lời giới thiệu cho lần xuất bản thứ hai (1963) và thứ ba (1966) tác phẩm Hành động của con người (Human Action), tác phẩm quan trọng nhất của ông, Mises viết rằng những người ủng hộ cho triết lí tự do cần phải giành lại “thuật ngữ ‘chủ nghĩa tự do’ vì đơn giản là không có thuật ngữ nào thể hiện được đúng đắn phong trào trí thức và chính trị vĩ đại đó”, một phong trào dẫn đến nền văn minh hiện đại bằng cách thúc đẩy thị trường tự do, chính phủ hạn chế và tự do cá nhân. Thuật ngữ “chủ nghĩa tự do” được dùng trong tác phẩm này theo nghĩa đó.

Nhằm giúp những độc giả chưa quen với các công trình của Ludwig von Mises (1881-1973), chúng tôi xin nói thêm rằng, trong hàng thập kỉ, ông đã là người phát ngôn nổi bật của Trường phái kinh tế học Áo. Trường phái này được gọi như thế vì Mises và hai vị tiền bối nổi tiếng của ông là Carl Menger và Eugen von Böehm Bawerk đều là những người sinh trưởng ở nước Áo. Hòn đá tảng của Trường phái kinh tế học Áo là lí thuyết (về cách đánh giá) chủ quan giá trị thỏa dụng cận biên. Lí thuyết này chỉ ra rằng tất cả mọi hiện tượng kinh tế, cả đơn giản lẫn phức tạp, đều là kết quả của những hành động cá nhân, dựa trên những giá trị mang tính chủ quan của mỗi người. Mises giải thích và phân tích phương pháp luận, giá trị, hành động, giá cả, các thị trường, tiền tệ, hiện tượng độc quyền, sự can thiệp của chính phủ, chu kỳ bùng nổ và suy thoái kinh tế… trên cơ sở của lí thuyết chủ quan đó, và đã có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực tiền tệ và tính toán kinh tế.

Mises bảo vệ luận án tiến sĩ tại Đại học Tổng hợp Vienna năm 1906. Đề tài luận văn của ông, Lí thuyết về tiền tệ và tín dụng, được xuất bản bằng tiếng Đức năm 1912, và bằng tiếng Anh năm 1934, là tác phẩm đầu tiên trong rất nhiều công trình lí thuyết của ông về kinh tế học. Trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, ngoài việc viết những tác phẩm và bài báo về kinh tế, trong số đó có tác phẩm đã tạo được tiếng vang như Chủ nghĩa xã hội, Mises làm việc toàn thời gian tại Phòng Thương mại Áo (cố vấn về kinh tế cho chính phủ Áo) và giảng dạy bán thời gian tại Trường Tổng hợp Vienna. Ông còn hướng dẫn những buổi thảo luận của các nhà nghiên cứu kinh tế, nhiều người trong số họ đã trở thành học giả có ảnh hưởng quốc tế. Năm 1926, ông thành lập Viện Nghiên cứu tư về chu kì kinh tế ở Áo, và viện này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Ngay sau khi Hitler giành được chính quyền ở Đức, Mises nhận thấy rằng nước Áo sẽ gặp rắc rối. Vì vậy, năm 1934 ông đã chuyển sang làm việc cho Viện Nghiên cứu quốc tế ở Thuỵ Sĩ. Ở đây, ông bắt đầu viết tác phẩm Nền kinh tế quốc dân (Nationaloekonomie -1940). Mặc dù ở châu Âu hồi đó, nơi chủ nghĩa xã hội quốc gia ngự trị, chẳng có mấy người biết tiếng Đức đọc tác phẩm này, nhưng cách lí giải những nguyên lí kinh tế sâu sắc của Mises đã tìm được nhiều độc giả qua bản dịch tiếng Anh, và sau đó được ông viết lại cho độc giả Mĩ dưới nhan đề Hành động của con người (xuất bản lần đầu năm 1949).

Nhằm chạy khỏi châu Âu lúc đó đã bị Đức Quốc xã chiếm đóng, Mises và vợ đã rời Thuỵ Sĩ và đến định cư ở Mĩ năm 1940. Mặc dù tiếng tăm của ông đã vang dội ở châu Âu, nhưng ở Mĩ thì chưa mấy người biết. Vì vậy ông phải bắt đầu gần như từ con số 0. Những tác phẩm bằng tiếng Anh bắt đầu xuất hiện dưới ngòi bút của ông: Omnipotent Government [Chính phủ toàn trí toàn năng], và Bureaucracy [Bộ máy quan liêu], cả hai đều được xuất bản năm 1947. Sau đó là tác phẩm Human Action [Hành động của con người], một tác phẩm quan trọng nhất của ông, được xuất bản năm 1949. Và những tác phẩm khác: Planning for Freedom [Kế hoạch hoá vì tự do] (1952), The Anti-Capitalistic Mentality [Não trạng bài tư bản] (1952), Theory and History [Lí thuyết và lịch sử] (1957), The Ultimate Foundations of Economic Science [Những nguyên lí căn bản nhất của kinh tế học] (1962), lần lượt xuất hiện. Tất cả đều là những tác phẩm cực kì quan trọng về lí thuyết kinh tế.

Năm 1947, Mises tham gia thành lập Mont Pelerin Society. Ông giảng dạy tại nhiều trường đại học Mĩ và Mĩ Latin, và tiến hành những buổi hội thảo về kinh tế học tại Đại học Tổng hợp New York trong suốt 24 năm. Ông còn là cố vấn cho Hiệp hội Quốc gia của các Nhà sản xuất (National Association of Manufacturers) và Quỹ Giáo dục Kinh tế (Foundation for Economic Education).

Mises nhận được nhiều danh hiệu như: tiến sĩ danh dự của các trường Grove City College (1957), Đại học Tổng hợp New York (1963), và Đại học Tổng hợp Freiburg ở Đức (1964). Thành tựu của ông được trường học cũ, tức Đại học Tổng hợp Vienna, công nhận, và theo truyền thống châu Âu, trường này đã kỉ niệm lần thứ 50 ngày ông nhận bằng tiến sĩ và “tái” cấp bằng cho ông. Năm 1962, đến lượt chính phủ Áo vinh danh ông. Hiệp hội các nhà kinh tế học Mĩ bầu ông làm hội viên danh dự năm 1969.

Ảnh hưởng của Mises vẫn tiếp tục mở rộng. F. A. Hayek, người học trò nổi tiếng nhất của ông từ những ngày ông còn giảng dạy ở châu Âu, cũng là người từng nhận giải Nobel về Kinh tế học, viết: “Ảnh hưởng của Mises đã vượt qua khuôn khổ cá nhân... Ngọn lửa mà ông thắp lên đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho một phong trào mới, một phong trào ngày càng có thêm sức mạnh.” Còn Giáo sư Israel Kirzner của Đại học Tổng hợp New York, một trong những người học trò nổi tiếng nhất của ông ở Mĩ, thì mô tả ảnh hưởng của ông đối với sinh viên hiện nay như sau: “Sự quan tâm đầy nhiệt tình và hăng hái đang tái xuất hiện đối với Trường phái kinh tế học Áo mà ta chứng kiến hiện nay có đóng góp mang tính quyết định của Mises.”

Mises là một lí thuyết gia sắc bén và rất thận trọng, nhưng không phải là lí thuyết gia ngồi trong tháp ngà. Được dẫn dắt bởi lí luận khoa học rằng xã hội tự do với nền kinh tế thị trường là con đường duy nhất đưa đến sự hài hoà và hoà bình cả trong nước lẫn trên trường quốc tế, Mises cảm thấy trách nhiệm phải áp dụng những lí thuyết mà ông trình bày vào lĩnh vực chính sách của chính phủ. Trong tác phẩm Chủ nghĩa tự do truyền thống, Mises không chỉ giải thích một cách ngắn gọn nhiều hiện tượng kinh tế quan trọng mà còn trình bày một cách rõ ràng quan điểm của ông về chính phủ và vai trò, tuy hạn chế nhưng vô cùng quan trọng, của chính phủ trong việc bảo đảm sự hợp tác của xã hội, chỉ có như thế thị trường tự do mới có thể hoạt động được. Quan điểm của Mises còn rất mới mẻ và hiện đại, và độc giả sẽ thấy rằng đến nay lí giải của ông vẫn còn nguyên giá trị.

Thông điệp của Mises: tư tưởng cai trị thế giới, là điệp khúc được nhắc đi nhắc lại trong tất cả các tác phẩm của ông. Nhưng tư tưởng này được thể hiện rõ nhất trong tác phẩm Chủ nghĩa tự do [truyền thống]. “Kết cục cuối cùng của cuộc đấu tranh”, giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa toàn trị, “sẽ không được giải quyết bằng vũ lực mà bằng tư tưởng. Chính tư tưởng đưa con người vào các nhóm đấu tranh và đặt vũ khí vào tay họ, tư tưởng quyết định vũ khí sẽ được dùng để chống lại ai và vì ai. Cuối cùng, chính tư tưởng chứ không phải vũ khí sẽ quyết định kết quả”, ông đã viết như thế vào năm 1927.

Trên thực tế, chính hi vọng giữ cho thế giới không tiếp tục rơi vào hỗn loạn và xung đột đã thuyết phục người ta từ bỏ chủ nghĩa can thiệp của chính phủ và chấp nhận các chính sách tự do.

Bettina Bien Greaves
Quỹ Giáo dục Kinh tế,
Tháng 8 năm 1985

----------------------------------------------

(Trích Lời giới thiệu, năm 1985, Chủ nghĩa tự do truyền thống, Ludwig Von Mises, Phạm Nguyên Trường dịch, Nxb Tri Thức, 2013, 404 trang, tr 11-18)